Video Lá cờ thêu sáu chữ vàng phá cường địch ?
Kinh Nghiệm về Lá cờ thêu sáu chữ vàng phá cường địch Chi Tiết
Họ và tên học viên Nữ đang tìm kiếm từ khóa Lá cờ thêu sáu chữ vàng phá cường địch được Update vào lúc : 2022-07-16 08:20:05 . Với phương châm chia sẻ Bí kíp Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi đọc nội dung bài viết vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Admin lý giải và hướng dẫn lại nha.
Năm đó, giặc Nguyên cho sứ thần sang vờ vịt mượn đường để xâm chiếm nước ta. Thấy sứ giặc ngang ngược đủ điều, Trần Quốc Toản vô cùng căm giận.
Nội dung chính- Phá cường địch, báo hoàng ân.Tóm tắt tiểu sử của Trần Quốc ToảnVideo liên quan
Vào một buổi sáng, biết vua họp bàn việc nước ở dưới thuyền Rồng, Quốc Toản quyết đợi gặp Vua Trần Nhân Tông để nói hai tiếng “xin đánh”. Đợi từ sang đến trưa, vẫn không được gặp, cậu bèn liều chết xô mấy người lính gác ngã chúi, xăm xăm xuống biển. Quân lính ập đến vây kín. Quốc Toản mặt đỏ tưng bừng, tuốt gươm, quát lớn:
– Ta xuống xin bệ kiến Vua, không kẻ nào được giữ ta lại.
Vừa lúc ấy, cuộc họp dưới thuyền rồng tạm nghỉ, Vua cùng những vương hầu ra ngoài mui thuyền.
Quốc Toản bèn chạy đến, quỳ xuống tâu:
– Cho Giặc mượn đường là mất nước. Xin bệ hạ cho đánh!
Nói xong, cậu tự đặt thanh gươm lên gáy, xin chịu tội.
Vua truyền cho Quốc Toản đứng dậy, ôn tồn bảo:
– Quốc Toản làm trái phép nước, lẽ ra phải trị tội. Nhưng xét thấy em còn trẻ mà đã biết lo việc nước, ta có lời khen.
Nói rồi, Vua ban cho Quốc Toản một quả cam.
Quốc Toản tạ ơn Vua, chân bước lên bờ mà lòng ấm ức: “Vua ban cho cam quý nhưng xem ta như trẻ con, vẫn không cho dự bàn việc nước”. Nghĩ đến quân giặc đang nhăm nhe đè đầu cưỡi cổ dân mình, cậu nghiến răng, hai bàn tay bóp chặt.
Thấy Quốc Toản trở ra, mọi người ùa tới. Cậu xoè bàn tay phải cho họ xem cam quý Vua ban. Nhưng quả cam đã nát từ bao giờ..
Sau đó Trần Quốc Toản trở về, lôi kéo hơn nghìn gia nô và người dân, sắm vũ khí, đóng con thuyền, thêu lên cờ sáu chữ:
Phá cường địch, báo hoàng ân.
Phá giặc mạnh, báo ơn vua.
Năm 1285, vua Trần Nhân Tông sai Chiêu Thành Vương, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản và tướng quân Nguyễn Khoái đem một nhóm binh lính đón đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khi vào trận với giặc, Hoài Văn hầu tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không đủ can đảm đối địch”
Chỉ sau 1 tháng, quân Nguyên bị đánh bại ở Kinh Thành và Chương Dương. Tướng Nguyên là Thoát Hoan, Bình Chương A Lạt phải bỏ chạy qua sông Lô.
Tóm tắt tiểu sử của Trần Quốc Toản
Về thân thế Trần Quốc Toản, một số trong những tài liệu ghi chép rằng Trần Quốc Toản (1267-1285) sinh ra tại làng Võ Ninh – Võ Giang nay thuộc tỉnh Ninh Bình, là con trai của Vũ Uy vương Trần Nhật Duy và bà Trần Ý Ninh, Trần Quốc Toản là cháu nội của vua Trần Thái Tông. Tuy nhiên, theo một số trong những nghiên cứu và phân tích mới gần đây nhận định rằng Trần Quốc Toản được sinh ra ở đất nhà Tống.
Thuộc dòng dõi hoàng tộc, Hoài văn hầu Trần Quốc Toản lớn lên trong cảnh đất nước sẵn sàng sẵn sàng chống quân Nguyên sang cướp phá và xâm lược nước ta lần thứ hai.
Khi quân Mông Cổ xâm chiếm Đại Việt lần thứ nhất (1258), Trần Nhật Duy đang làm Tổng trấn biên giới phía Bắc. Sau khi giành thắng lợi, vua Trần Thánh Tông cử Trần Nhật Duy và vợ là Trần Ý Ninh cùng một số trong những tướng sang giúp nhà Tống, vì lo rằng nếu Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống, họ sẽ kéo sang đánh Đại Việt lần nữa.
Trần Quốc Toản được sinh ra ở đất Tống nên có nhiều bạn bè là con cháu trong hoàng tộc nhà Tống. Năm 1279, sau khi nhà Tống bị nhà Nguyên tiêu diệt hoàn toàn, một số trong những người dân Tống kéo sang Đại Việt lánh nạn và giúp nhà Trần đánh giặc Mông – Nguyên. Một đội quân do hoàng tử Tống tên Triệu Trung đứng đầu chiến đấu dưới sự chỉ huy của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.
Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản cũng đứng đầu một đội nhóm quân khác chiến đấu dưới sự chỉ huy của tướng Trần Nhật Duật. Sau đó, Quốc Toản gặp và kết hôn với Triệu Ngọc Hoa, em gái của Triệu Trung. Vì lấy vợ Tống nên tuy nhiên trung nghĩa và lập được nhiều chiến công, Trần Quốc Toản chỉ được phong tước hầu chứ không được phong tước vương.
Trần Quốc Toản hay Hoài Văn Hầu (1267-1285) là một thiếu niên anh hùng, có công tham gia kháng chiến chống giặc Nguyên lần thứ hai.
Trần Quốc Toản nổi tiếng với chuyện bóp nát quả nam lúc không được tham dự hội nghị Bình Than (1282) để bàn phương hướng kháng chiến với quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại Việt. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: "Vua thấy Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Hoài Nhân Vương Kiện đều còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn khích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết".
Sau khi từ bến Bình Than trở về, Trần Quốc Toản lôi kéo hơn nghìn gia nô và người nhà thân thuộc, sắm vũ khí, đóng con thuyền, viết lên cờ sáu chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua). Sau này, khi đối trận với giặc, Trần Quốc Toản tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không đủ can đảm chống lại.
Sau đó, Trần Quốc Toản được lệnh đưa đoàn nghĩa sĩ về hội quân tại Vạn Kiếp. Lá cờ "Phá cường địch, báo hoàng ân" phất phới bay ngang hàng với cờ của những vương hầu khác. Trần Quốc Toản xin được ra trận lập công. Chàng được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cử làm tướng tiên phong dưới quyền Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, đưa quân đánh tan đạo quân của Toa Đô ở cửa Hàm Tử.
Lá cờ thêu sáu chữ vàng lại tiếp tục dẫn Trần Quốc Toản cùng đoàn nghĩa sĩ "đi mãi tới những nơi nào không còn bóng quân Nguyên".
Tranh minh họa tác phẩm "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" (Nguyễn Huy Tưởng), sách Văn học lớp 7 (Nhà xuất bản Giáo dục đào tạo, 2000).
>Quay lại" href="https://vnexpress/danh-tuong-nao-noi-chem-dau-than-truoc-roi-hay-hang-4428807.html">>>Quay lại
Tú Linh (Tổng hợp)
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của những tiểu thuyết lịch sử, vở kịch lớn như: Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, Bắc Sơn, Sống mãi với thủ đô... Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957) và được tặng Trao Giải Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật và thẩm mỹ (1996). "Lá cờ thêu sáu chữ vàng xoay quanh nhân vật trung tâm là người thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản. Là nhà văn làm văn nghệ về đề tài lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng còn làm luôn cả việc làm của nhà nghiên cứu và phân tích sử học. Tác phẩm của ông vỗ cánh trên cái nền vững chắc của sử học, để lấp lánh, tỏa sáng bằng một thứ ánh sáng rạng rỡ bởi sự trung thực, khả tín. Ở Lá cờ thêu sáu chữ vàng, không riêng gì có nhân vật đó đó là Trần Quốc Toản, mà cả những nhân vật phụ, không phải chỉ diễn biến chung chung, mà cả những tình tiết, rõ ràng, đều có những hiệu suất cao kèm độ tin cậy như vậy." (Lê Văn Lan, Nguồn sáng của một nhà văn đi trước) .... Nhà sử học Dương Trung Quốc cũng cho biết thêm thêm, thuở nhỏ từng say mê đọc những truyện Nguyễn Huy Tưởng viết cho thiếu nhi, mà ấn tượng nhất là Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Nhà văn Lê Phương Liên nhớ lại “Trẻ con hàng phố ngày ấy, chuyền tay nhau đọc Lá cờ thêu sáu chữ vàng, say sưa đến nỗi, còn đóng vai Trần Quốc Toản, Trần Nhật Duật, rồi cả Ô Mã Nhi, Thoát Hoan... chia phe ra tỷ thí bên bãi cỏ rộng ở vườn hoa đền Bà Kiệu”... (Hồng Minh, Nguyễn Huy Tưởng với Tp Hà Nội Thủ Đô ) Và thông tin thêm từ wikipedia.org : Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản (chữ Hán: 陳國瓚, 1267-1285) là một nhân vật lịch sử, sống ở thời kỳ trị vì của vua Trần Nhân Tông. Ông đã có công tham gia kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Tháng 10 năm 1282, những vua Trần mở hội nghị Bình Than để bàn kế chống quân Nguyên. Đại Việt Sử ký Toàn thư (ĐVSKTT) chép: Vua thấy Hoài Văn Hầu Quốc Toản, Hoài Nhân Vương Kiện đều còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn kích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó Quốc Toản lui về, lôi kéo hơn nghìn gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí, đóng con thuyền, viết lên cờ sáu chữ :"Phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, báo ơn vua). Sau này, khi đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không đủ can đảm đối địch. Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước vương. Tháng 4 năm 1285, vua Trần Nhân Tông sai Chiêu Thành vương, Hoài Văn hầu Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết. Ngày 10 tháng 5 năm đó có người về báo cho hai vua Trần là thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em là Nguyễn Truyền đem dân binh những lộ đánh bại quân giặc ở những xứ Kinh Thành, Chương Dương. Quân giặc tan vỡ lớn... Thoát Hoan, Bình chương A Lạt rút chạy qua sông Lô. Trong những sử sách của Việt Nam như Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Việt sử Tiêu án và những quyển sử soạn mới gần đây như Việt sử tân biên của Phạm Văn Sơn, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Trần Hưng Đạo của Hoàng Thúc Trâm đều không thấy đề cập đến cái chết của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. Chỉ có ĐVSKTT bản kỷ quyển V có viết: "... Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước Vương". Nhưng những quyển sử của nhà Nguyên lại sở hữu đề cập đến cái chết của ông. An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a10 có ghi: Quan quân đến sông Như Nguyệt, thì Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đến đánh... Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27b 1-2 có viết:... Đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn Hầu đến đuổi thì bị giết. Theo sách Việt sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh thì khi Ô Mã Nhi đánh vào Vân Đồn để cướp lại lương thực thì quân của Trần Quốc Toản và Trần Khánh Dư chống đỡ kịch liệt. Quốc Toản nhiệt huyết cự địch, rủi ro qua đời ngày 2-2 âm lịch. Quốc Toản đã đi vào lịch sử với lòng dũng cảm và tinh thần yêu nước, dám hi sinh mạng sống vì dân tộc bản địa của tớ. Khí phách ấy đã được nói rõ trên lá cờ thêu sáu chữ vàng của ông; nguyên văn sáu chữ (phiên sang Hán-Việt) là: Phá cường địch, báo hoàng ân (Phá giặc mạnh, báo ơn vua). Hồ Chí Minh trong tác phẩm "Lịch sử nước ta" có ca tụng về Trần Quốc Toản như sau: Quốc Toản là trẻ có tài năng, Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền, Mấy lần đánh thắng quân Nguyên, Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.