Mẹo Câu chuyện Chử Đồng Tử có thật không ?
Mẹo về Câu chuyện Chử Đồng Tử có thật không Mới Nhất
Lê Mạnh Hùng đang tìm kiếm từ khóa Câu chuyện Chử Đồng Tử có thật không được Update vào lúc : 2022-08-12 15:50:11 . Với phương châm chia sẻ Kinh Nghiệm Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi tham khảo Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Admin lý giải và hướng dẫn lại nha.
Trong quá trình lưu hành qua những thời đại, truyện Chử Đồng Tử cũng như nhiều truyện cổ dân gian khác đã không giữ được nguyên dạng. Tuy có xen nhiều yếu tố truyền thuyết và cả thần thoại nhưng cốt lõi của nó vẫn là một truyện cổ tích thần kỳ. Nghĩa là cũng với nội dung phản ánh hiện thực môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường và ước mơ, lý tưởng xã hội của nhân dân, yếu tố kì ảo là một thành phần không thể thiếu trong diễn biến. Từ đó dẫn đến việc đầu tiên thiết yếu là lựa chọn văn bản. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1 do GS Trần Đình Sử tổng chủ biên đã lấy bản kể của Vũ Ngọc Phan (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1, NXB Văn học, 1972) được biên soạn trên cơ sở bản kể của Vũ Quỳnh- Kiều Phú trong Lĩnh Nam chích quái lục ra đời vào thế kỉ XIV. Tuy nhiên, để truyện được tập trung, những tác giả biên soạn sách đã cắt bỏ đoạn cuối nói chuyện đời sau: Khi Triệu Quang Phục (?- 571) đóng quân ở đầm Nhất Dạ chống lại quân xâm lược nhà Lương, Chử Đồng Tử cưỡi rồng vàng bay xuống cho Triệu Quang Phục một chiếc móng rồng, nhờ thế mà người ta Triệu thắng giặc. Có thể nói, Chử Đồng Tử thấm đẫm chất thơ và chiều sâu triết lý mà nhiều truyện cổ tích thần kì khác không đã có được. Mặt khác, qua sự sàng lọc của nhân dân, truyện trở nên ngắn gọn súc tích, chứa được nhiều hàm lượng ý nghĩa và sự đan xen phức tạp nhiều chủ đề.
Truyện kể về cuộc hôn nhân gia đình của hai nhân vật chính: chàng trai đánh cá nghèo ở bến sông và công chúa con vua. Qua ba phần của truyện khá rạch ròi, ngặt nghèo( ra mắt nhân vật, gặp gỡ và hôn ước, môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường vợ chồng sau khi kết hôn), ta thấy hiện lên đặc điểm tính cách của từng nhân vật. Không giống một số trong những truyện cổ tích khác, những nhân vật ở đây không hình thành hai tuyến đối kháng: thiện - ác, chính - tà.
Trong phần đầu truyện, tuy rất ngắn gọn nhưng tất cả những nhân vật đều được ra mắt với những đường nét cơ bản về thực trạng sống, địa vị xã hội và tính cách. Nếu nói về nỗi khổ thì cha con Chử Đồng Tử đã đến mức tột cùng. Khổ vì nghèo: “nghèo đến mức cùng chung một chiếc khố, hễ ai đi đâu thì đóng”. Lời dặn thật đau lòng của người cha lúc hấp hối: “Bố chết, con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lấy mà dùng” tiềm ẩn tấm lòng rất đỗi nhân từ của người cha khốn khổ. Đáp lại, Chử “không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn”. Hành động cưỡng lại ý cha đó là biểu lộ cao đẹp của tấm lòng hiếu thảo, đồng thời khắc sâu thêm nông nỗi khổ nghèo cùng kiệt của người con. Tình tiết xoay quanh chiếc khố là biểu lộ sống động của tình phụ tử thiêng liêng với quan niệm hai chiều: “phụ từ - tử hiếu” của nhân dân. Đây cũng là “nút bấm” để mở ra những rõ ràng tiếp diễn làm cho mạch chủ yếu của truyện được khơi dòng: cuộc hội ngộ tình cờ có một không hai giữa Chử Đồng Tử và Tiên Dung.
Trong quan hệ phụ- tử, giữa vua cha (có bản ghi rõ là vua Hùng Vương đời thứ ba) và công chúa Tiên Dung, truyện cũng luôn có thể có tình tiết vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến. Tiên Dung “nhan sắc tuỵêt trần, tuổi đã lớn mà không chịu lấy chồng, chỉ thích chèo thuyền xem sông núi”.Nàng không tự trói mình trong khuê những và bổn phận nữ nhi thường tình bởi tâm hồn nàng ưa tự do, khoáng đạt. Được vua cha cưng chiều, tâm hồn tự do ấy như được chắp cánh. Vua cha “chiều con, cấp cho thuyền và đủ mọi người hầu hạ, mặc con muốn đi đâu thì đi”-rõ ràng này cùng với rõ ràng về cái khố ở phần đầu truyện đã hoàn tất việc sẵn sàng sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ kì diệu giữa Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong phần sau đó.
Đoạn kể về cuộc gặp gỡ tình cờ dẫn tới hôn nhân gia đình giữa hai người là phần trọng tâm, thể hiện tư tưởng chủ yếu của truyện. Tại đây xuất hiện những yếu tố ngẫu nhiên: Bến sông Chử Xá, nơi hằng ngày chàng trai đánh cá dầm mình trong nước để che tấm thân trần trụi bỗng có một ngày đẹp trời đoàn thuyền du ngoạn của công chúa đi qua. Đó là thuở nào gian ngẫu nhiên. Trên bãi sông rộng lớn, địa điểm công chúa giăng màn tứ vi để tắm lại đó đó là nơi Chử vùi mình. Đó lại là một không khí trùng hợp ngẫu nhiên. Giống như nhiều truyện cổ tích khác, yếu tố ngẫu nhiên đóng vai trò quan trọng, không còn nó, câu truyện không thể nào phát triển được. Tuy nhiên, trong sự ngẫu nhiên bên phía ngoài có hạt nhân hợp lý bên trong từ tính cách nhân vật. Nếu không phải là một tâm hồn tự do khoáng đạt yêu thích thiên nhiên, không nhìn ra cảnh đẹp với bãi sông rộng lớn, lác đác những bụi cây toả bóng mát dịu êm thì làm thế nào Tiên Dung đã có được hành vi đầy ngẫu hứng: quây màn tắm giữa thanh thiên? Sự chan hoà giữa chủ thể và khách thể, tình cờ và tất yếu đã phổ thành bản tình ca bất hủ không lời!
Ở đây đã ra mắt thuở nào khắc đầy kịch tính: “Nàng dội nước một lúc thì tự nhiên Chử Đồng Tử trồi lên”.Hai người trẻ tuổi khác giới nhìn thấy nhau khi đang trong trạng thái tự nhiên hoang sơ nguyên thuỷ. Sau khoảng chừng thời gian ngắn “giật mình” kinh hãi, Tiên Dung trở về với tính cách tự chủ vốn có của tớ. Nàng ân cần hỏi han duyên cớ rồi nhanh gọn quyết định kết hôn với Chử Đồng Tử do một niềm tin chắc như đinh vào duyên phận. Tiên Dung nói: “Tôi đã nguyện không lấy chồng. Nay duyên trời run rủi, lại gặp chàng chốn này, mới biết cưỡng không được ý trời” và “Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối!”. Nói theo ngôn từ ngày này thì Tiên Dung đã dữ thế chủ động “tấn công” Chử Đồng Tử bằng cả lí, cả tình và hoàn toàn có thể là bằng cả sắc đẹp tự nhiên của nàng nữa. Còn về phía Chử Đồng Tử, trước lời “cầu hôn” của Tiên Dung, ban đầu chàng “ngỏ ý chối từ” bởi mặc cảm thân phận, nhưng trước thái độ quả quyết của nàng, chàng “đành phải nghe theo” và từ hôm ấy hai người thành vợ chồng.
Cuộc hôn nhân gia đình tình cờ giữa hai con người thuộc hai đẳng cấp chênh lệch nhau vời vợi vừa trần tục vừa thiêng liêng. Trong toàn cảnh xã hội phong kiến có sự phân biệt nóng bức về đẳng cấp, nó là hiện thân của khát vọng, ước mơ về hôn nhân gia đình tự do, mặc kệ sang hèn của nhân dân lao động Việt Nam. Nó cũng bao hàm thái độ phản ứng lại những quy ước ngặt nghèo về “môn đăng hộ đối” của lễ giáo phong kiến và suy rộng ra, đó là biểu lộ của lý tưởng dân chủ sơ khai.
Từ một chàng trai mồ côi nghèo khổ đến mức khố không còn mà mang, nhờ cuộc hôn nhân gia đình ngẫu nhiên, tiền định, Chử được “đổi đời”: có vợ đẹp, thành tháp hoàng cung, kẻ hầu người hạ. Theo M.Gorki thì đó là hiện thực “nên có”, “hoàn toàn có thể có” hay nói cách khác, điều này phản ánh ước nguyện của nhân dân: những con người khổ nghèo mà hiếu nghĩa, có phẩm chất, tài năng sẽ được đền bù. Không tìm thấy niềm sung sướng trong đời thực, nhân dân hướng tới niềm sung sướng trong ước mơ với một nhiệt tình tràn đầy sức sống. Trong phần ba của truyện ( môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường sau hôn nhân gia đình) có sự hòa lẫn giữa hiện thực và kỳ ảo, những yếu tố kì ảo ngày một đậm đặc. Sau khi kết hôn, Tiên Dung không trở về kinh đô với vua cha mà ở lại với chồng, sống đời dân dã,từ từ lập thành xóm mới. Chi tiết nghệ thuật và thẩm mỹ này vừa làm rõ thêm tính cách tự do, tự chủ của nàng, vừa phản ánh quá trình phát triển dân cư, mở mang địa bàn sinh sống của người xưa. Cuộc hôn nhân gia đình Chử Đồng Tử - Tiên Dung là một cuộc hôn nhân gia đình niềm sung sướng. Cảnh vợ chồng họ ngồi tựa vào nhau mà ngủ dưới chiếc nón che sương úp trên đầu cây gậy thần trong một đêm hoang vắng nơi xa lạ là một rõ ràng nghệ thuật và thẩm mỹ tuyệt diệu giàu chất tạo hình và biểu lộ, trộn lẫn thực và mộng, hiện thực và lãng mạn. Tất cả những cụ ông cụ bà thể đó đã hàm chứa một chiều sâu triết lý, phản ánh quan niệm lành mạnh mẽ và tự tin của nhân dân về niềm sung sướng lứa đôi: hôn nhân gia đình không phân biệt sang hèn, tự tạo dựng cuộc sống bằng bàn tay khối óc, coi sự giàu sang yêu thương cao hơn sự dồi dào vật chất.
So với phần một và hai, đến phần ba này của truyện, tính cách của hai nhân vật có sự biến hóa theo khunh hướng ngày càng thoát tục. Sự thống nhất ý chí và hành vi trong việc học và thực hành đạo pháp đã phản ánh khát vọng siêu thoát của tớ. Những hoàng cung nguy nga lộng lẫy tự nhiên xuất hiện sau một đêm kia đâu có nằm trong mơ ước của tớ? Sự xuất hiện và tan biến mau chóng của nó chẳng qua là hình ảnh hình tượng cho cái đạo “sắc - không” của Phật pháp mà thôi. Trong truyện Chử Đồng Tử, mơ ước của nhân dân đã được thực hiện trọn vẹn. Không phải mơ ước về môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường sang giàu phú quý mà là mơ ước tự do. Tự do hôn nhân gia đình, tự do lập nghiệp và cao hơn tất thảy là tự do bay bổng trong cõi vĩnh hằng, bất tử. Kết cấu của truyện thể hiện hành trình dài đi tìm niềm sung sướng của con người từ việc thoả mãn những ước ao trần thế cho tới lúc cập bờ vinh quang nơi bến bờ giác ngộ. Chính điều này sẽ soi sáng cho ta điều do dự: Vì sao trên điện thần Việt Nam, có thờ một trong bốn vị thánh (tứ bất tử), đó là Chử Đạo Tổ? (Chử Đồng Tử). Vì sao chỉ với một chiếc vuốt rồng thánh Chử cho, cắm nó lên mũ đầu mâu mà Triệu Việt Vương “đi đến đâu giặc Lương tan đến đấy”. Chi tiết ở đầu cuối cũng rất đáng để ý quan tâm: Tin Chử Đồng Tử – Tiên Dung “nghênh ngang một cõi” đến tai vua, vua ngờ rằng hai người làm mưa làm gió đã sai quân đến đánh; hai người không đem quân chống lại mà thăng tất cả lên trời, tránh cuộc đao kiếm chém giết. Phải chăng qua rõ ràng này, tác giả dân gian còn gửi gắm khát vọng hoà bình của nhân dân.
Là sản phẩm tổng hợp của nhiều kiểu sáng tác, nhiều loại tư duy nghệ thuật và thẩm mỹ, trong đó những yếu tố của tư duy cổ tích pha trộn với những yếu tố của tư duy thần thoại, Phật thoại, tiên thoại, truyện Chử Đồng Tử có mầu sắc huyền ảo số 1 trong những truyện cổ tích Việt Nam. Ngoài ra, truyện còn bao hàm cả những yếu tố thể loại truyền thuyết. Dấu tích còn sót lại sau lần thăng thiên của người và vật để lại đầm Nhất Dạ và bãi Tự Nhiên có ý nghĩa lý giải địa danh và phản ánh hiện tượng kỳ lạ địa chấn hay sự đổi dòng chảy của sông Hồng. Có người còn coi Chử Đồng Tử như một anh hùng văn hoá có công xây dựng xóm làng, khai thác đầm lầy ở châu thổ sông Hồng.
Tóm lại, bằng cảm quan thế tục pha mầu tôn giáo, truyện Chử Đồng Tử đã diễn tả con phố đi tới niềm sung sướng của con người. Không phải là niềm sung sướng trong thưởng thức vật chất hay trong những thoả mãn bản năng mà là niềm niềm sung sướng mang giá trị tinh thần. Đó là sự việc thụ hưởng tình thương yêu giữa con người với con người, là niềm hoan lạc khi đạt đến sự giác ngộ và siêu thoát. Từ hiện thực đến huyền ảo, từ Đời đến Đạo, đó đó đó là bước phát triển của diễn biến và nhân vật trong thiên truyện này.
Nguyễn Nguyên Tản
[embed]https://www.youtube.com/watch?v=PFWz0x_9aUQ[/embed] Tải thêm tài liệu liên quan đến nội dung bài viết Câu chuyện Chử Đồng Tử có thật không